Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những
Dàn ý phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân. Mẫu 1. Mẫu 2. Dàn ý nét mới trong cảm nhận về Đất nước. Dàn ý phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước. Mẫu 1. Mẫu 2. Dàn ý nghiên cứu và phân tích Đất Nước. A, Đất nước được cảm nhận bằng chiều dài của tư
Bài mẫu số 3: Phân tích đoạn đầu của bài thơ Đất Nước Đoạn Đất Nước trích gần chọn chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc và có phần mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Phân tích vẻ đẹp trí dũng và tài hoa của hình tượng ông lái đò trong đoạn trích sau: Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách
Qua phân tích đất nước đoạn 3 ta hiểu được rằng những người con đất Việt với tình yêu dân tộc nồng nàn chính là yếu tố làm nên Đất Nước. Trong mỗi chúng ta, Đất nước chính là lòng yêu thương và cũng là sứ mệnh phải thực hiện từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Bài văn hay , phân tích bình giảng đoạn trích Đất nước, SGK Ngữ văn lớp 12. Đề bài : Cảm nhận của anh/ chị về đoạn trích Đất nước, trích Trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong đoạn thơ trữ tình – chính luận này, Nguyễn Khoa Điềm
b3pPFq. Dàn ý phân tích đoạn 3? Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước? Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước? Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước? Bài mẫu 4 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước?Hiện nay, xu hướng ra đề thi văn THPTQG chủ yếu là phân một đoạn trích từ đó đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật và liên hệ. Nắm bắt được điều đó, chúng tôi sẽ cung cấp đến cho bài những bài văn mẫu phân tích đoạn 3 bài thơ đất nước – trong những bài trọng điểm, có xu hướng ra nhiều trong đề thi THPTQG. Mục lục bài viết 1 1. Dàn ý phân tích đoạn 3 2 2. Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước 3 3. Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước 4 4. Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước 5 5. Bài mẫu 4 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước Mở bài Giới thiệu tác giả tác phẩm và vị trí đoạn trích. Thân bài Đất nước ra đời từ xa xưa, gắn liền với những truyền thuyết, cổ tích từ xa xưa. – Sản xuất những truyền thống rất tốt đẹp của dân tộc từ truyện cổ tích, dựa trên truyền thuyết. – Sự tích Trầu Cau, nhắc lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là tình anh em sâu nặng, vợ chồng thủy chung, nhắc lại những phong tục đẹp của dân tộc ta. Đó là tục ăn trầu nhuộm răng. – Truyền thuyết về Thánh Gióng cũng rất quen thuộc, gợi lại truyền thống yêu nước, bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc. – Đất nước có từ lâu đời bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục của cha ông. – “Tóc mẹ búi ra sau đầu” gợi cho người đọc ký ức về phong tục các bà, các mẹ ngày xưa búi tóc thấp, búi tròn sau gáy. – “Cha mẹ thương nhau bằng muối gừng cay”, là đại biểu cho truyền thống tôn trọng tình nghĩa vợ chồng. – Đất nước đã có từ rất lâu đời và được hình thành cùng với quá trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường, biết làm nhà, trồng lúa, cấy cây… – Về không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hẹn hò “nơi em đi học”, “nơi em tắm”,… là một không gian thực sự gần gũi, thân thiết. Nhưng đất nước cũng đã khoác lên mình một dáng vẻ cao cả, hùng vĩ như những “núi bạc”, “biển cả” nơi con người tìm về sau những ngày xa quê hương. – Về thời gian lịch sử Quá khứ ấy còn là một đất nước vĩ đại và linh thiêng, sau đó tác giả nhắc nhở ta về nòi giống cao quý của dân tộc ta là con rồng cháu tiên. Đồng thời cũng nhắc nhớ về những truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Trong hiện tại, nơi đất nước hiện ra một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện trong mỗi con người, đã bao ngôn ngữ để con người giao tiếp và tư duy, bao phong tục tập quán tốt đẹp sẽ còn tồn tại trong mỗi nếp sống. Trong tương lai đó là một Đất nước với biết bao viễn cảnh tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai trọng trách lớn lên cả về trí tuệ và tầm vóc, làm nên những điều kỳ diệu. cho cả dân tộc. Tư tưởng Quốc gia của nhân dân ta – Về không gian và địa lý – Cảm nhận đất nước đã đi qua những danh lam thắng cảnh Việt Nam được nhắc đến dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả về quê hương, đất nước. – Nhắc nhở về những truyền thống thực sự tốt đẹp của dân tộc. – Nhấn mạnh đất nước ta là một dải núi sông liền nhau, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam một nhà của nhân dân ta. Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình nghĩa vợ chồng, cũng như ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, gợi lại thời dựng nước thiêng liêng. hào hùng và cuối cùng là nhắc lại truyền thống hiếu học của dân tộc ta, nhất là những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên cảnh sắc cho quê hương. => Khẳng định mạnh mẽ tư tưởng đất nước của nhân dân vì nước là do nhân dân góp công, của Nguyễn Khoa Điềm rất nhiều. Vài nét về thời đại và lịch sử nước ta – Suốt 4000 năm lịch sử, nơi những con người đã luôn đứng lên đấu tranh bảo vệ Tổ quốc “không ai nhớ tên” nhưng họ cũng là những người đã có công dựng nước. – Nhân dân không chỉ là người dựng nước và giữ nước, mà nhân dân còn là người thực hiện nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng đó là lưu truyền cho thế hệ mai sau những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc. . Về mặt văn hóa – Tác giả cũng đã lựa chọn ba câu ca dao tiêu biểu để gợi lên ba nét đẹp tinh thần của người Việt, cũng là ba nét đẹp văn hóa rất tiêu biểu” của người Việt Nam nói chung. – “Yêu em từ thuở nằm nôi/ Em nằm em khóc, em ngồi em ru”, đó là vẻ đẹp nồng nàn nhất trong tình yêu, biết yêu thương những người xung quanh mình. – “Đi bồng vàng lội sông/Vàng rơi không tiếc tay cầm vàng”, từ đó ta thấy được vẻ đẹp của sự coi trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường. – “Thù này ắt để lâu/Trồng tre cắm gậy phải khập khiễng” gợi vẻ đẹp bền bỉ trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay. Kết bài Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài. 2. Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước Từ xưa đến nay, viết về đất nước luôn là nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học. Tiếp nối mạch nguồn văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm, một gương mặt nổi bật của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những cái nhìn rất mới về ước mơ đất nước. Quan điểm ấy được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích “Đất Nước” trong sử thi Mặt đường đầy khát vọng. Đất nước là một khái niệm khác nhau đối với mỗi người. Đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng tình cảm của mình, bằng sự phân tích bằng tư duy logic, và lần lượt từng tầng ý niệm về đất nước dần được ông mở ra. Ông không định nghĩa bằng những khái niệm quá mơ hồ, trừu tượng mà từ những điều rất cụ thể trong chính cuộc sống Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc Qua quan niệm của tác giả, hình ảnh đất nước hiện lên thật bình dị, đất nước đến từ truyện cổ tích, từ trầu cau, từ truyền thuyết Thánh Gióng trồng tre đánh giặc Ân. Tổ quốc ta có từ ngày ấy, đã thấm nhuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ thuở ấu thơ. Không chỉ vật, mà nước còn được hình thành từ những thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống tốt đẹp của cả dân tộc ta. Hình ảnh “tóc mẹ vén sau đầu” thể hiện nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa được lưu giữ từ ngàn đời nay của ông cha ta. Nghìn năm Bắc thuộc, nếu phương Bắc tìm cách Hán hóa bằng mọi cách thì cũng không cách nào xóa bỏ được vốn văn hiến cao đẹp của dân tộc ta. Đất nước còn được hình thành từ lối sống thủy chung, tình cảm, bắt nguồn từ tình nghĩa vợ chồng “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng bậc thầy ca dao “Tay nâng đĩa muối gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất nước được hình thành từ những gì có vẻ là. giản dị nhưng rất thiêng liêng và cao cả. Tiếp tục mạch cảm hứng đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất nước là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất nước không còn là xa lạ mà là không gian sống, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm không khoa trương, không ngần ngại nói rõ đó là nơi đi học, nơi tắm, nơi hò hẹn, nơi thương nhớ. Vâng, đó là đất nước được hình thành từ những điều giản dị nhất của cuộc sống. Và để khắc sâu quan niệm ấy, ông đã truy ngược nguồn gốc, ngược về quá khứ “Đất nước là nơi nhân dân sum họp/Đất là nơi chim về/Nước là rồng ở/Lạc Long Quân, Âu Cơ/Đẻ con đồng bào trong bọc trứng”. Từ sự lý giải sâu sắc trên hai bình diện lịch sử và địa lý, ông dần dần đi đến hoàn chỉnh khái niệm Đất nước. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống của đất nước “Người đã khuất/ Kẻ còn bây giờ/ Thương nhau mà thôi con/ Chịu phần người đi trước để lại// Xin dạy con cháu mai sau nên làm gì/ Ăn ở đâu hàng năm/ Con cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh” đã khẳng định thế hệ mai sau có trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời Người cũng nhắc nhở, dù có dựng nước cũng không được quên công lao của những người có công dựng nước, dựng nước. Chỉ với hai hai chữ “lạy” cũng thể hiện được tấm lòng thánh thiện, thiêng liêng hướng về quê cha đất tổ, nơi tổ tiên sinh ra và lớn lên. “Trong anh em hôm nay/…/Đất nước vẹn toàn và to lớn”, câu thơ đã khẳng định, đất nước tồn tại và bền vững là nhờ có sự đoàn kết của mọi người, của tình yêu đôi lứa. . Chỉ khi nào có sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì mới có một đất nước vĩ đại và toàn vẹn. Và từ đó, Người cũng nêu cao trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể thế hệ trẻ đối với đất nước như “Các em ơi, đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và sẻ chia/ Phải biết chuyển mình cho hình dáng đất nước/ Làm cho đất nước trường tồn” vì Những người vợ nhớ chồng còn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu … Những người dân nào đã góp nên những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được ông đặt tên. Mỗi địa danh ấy cũng gắn liền với một chiến công, với sự hy sinh thầm lặng để đất nước mãi mãi tươi sáng. Chính vì thế đã khiến Người rút ra kết luận “Còn đâu đâu ruộng nương/…/Đời ta đã hóa núi sông”. Làm nên đất nước, không thể chỉ một cá nhân làm nên văn hóa, truyền thống, lịch sử của dân tộc. Vậy là ai, tất cả là ai? Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất NướcQuả thật, đó là những con người vô danh, họ là những cô gái, những chàng trai, họ “sống chết” “giản dị và bình lặng” họ đặt tên xã là làng, mang về những phong tục tập quán được truyền lại, gìn giữ cho muôn đời sau. . Chính họ cũng đã làm nên đất nước. Với thủ pháp liệt kê và nói “họ”, Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mắt người đọc một lớp người vô danh được nối tiếp nhau truyền từ đời này sang đời khác cho con cháu những giá trị vật chất, vật chất. tinh thần cao thượng. Và mục tiêu của họ là Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại Về điểm này, Nguyễn Khoa Điềm cũng khẳng định mạnh mẽ quan điểm tư tưởng của mình về đất nước và nhân dân. “Trở về cội nguồn đất nước là trở về cội nguồn văn hóa dân gian giàu đẹp” khởi đầu cho truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Đồng thời cũng là nơi tạo dựng và khơi dậy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu Bài thơ kết thúc bằng những khúc tráng ca tự hào, trải dài dường như vang vọng khắp sông núi. Đồng thời tiếng hát ấy cũng thể hiện niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với truyền thống văn hiến ngàn đời của cha ông để lại. Đất Nước là bài thơ giàu chất suy tưởng, triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, mới mẻ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc đã được mở mang kiến thức và có cái nhìn chân thực hơn về Đất nước trong suốt chiều dài lịch sử. Từ đó em càng thêm yêu và tự hào về nơi mình đã sinh ra và lớn lên. 3. Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước Đất nước là đề tài muôn thuở trong thơ ca, nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh khắc nghiệt, tình yêu đất nước vẫn tỏa sáng và cháy bỏng trong trái tim mỗi người dân đất Việt. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong hoàn cảnh đó. Nói đến văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta biết đến các nhà thơ thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật… đã viết về tinh thần của cả một dân tộc “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai.” Một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam lúc bấy giờ phải kể đến một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc đó là Nguyễn Khoa Điềm. Nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, người yêu văn chương nào cũng không thể quên phong cách thơ của ông là thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn người đọc bởi những cảm xúc lắng đọng, giàu chất chiêm nghiệm, thể hiện tâm thế của người trí thức tích cực tham gia các cuộc đấu tranh của nhân dân. Một trong những kiệt tác đó của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất nước” trong chương V của “Bài ca dài với mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, và được in. lần đầu tiên vào năm 1974. Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của dân”, được nhân dân mãi mãi bảo vệ và giữ gìn, nhưng trên cả ba bình diện bề rộng của không gian địa lý, bề dài của lịch sử, bề sâu của lịch sử. văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm câu hỏi “Đất nước này ai dựng nên, ai sẽ bảo vệ, gìn giữ muôn đời?” Để trả lời những câu hỏi đó đã khiến Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc tìm về cội nguồn Tổ quốc. Khi nói đến những nét đẹp của đất nước trên bình diện nhiều chiều sâu văn hóa, chúng ta phải hiểu rằng văn hóa là những giá trị mà con người ở một vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần, có thể đó là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa nhìn nhận, người Việt Nam không chỉ cử nhau đi bảo vệ bờ cõi mà còn trao truyền, đùm bọc lẫn nhau những hạt giống của dân tộc ta, với những nét đẹp thấm đượm bản chất của người Việt Nam. được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người giàu đến lồng ngực của người trẻ, đó là nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam chúng ta. Đất nước bắt đầu từ một cách trang trọng nhưng rất giản dị và gần gũi Cấu trúc câu “Đất nước đã – khởi đầu – lớn lên” đã hình dung quá trình phát triển của đất nước trong giai đoạn lịch sử đó, đất nước như một sinh thể sống có nội lực mạnh mẽ. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chính chi phối toàn bài thơ, góp phần khắc họa cảnh quê thật bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, ở đó đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, tình làng nghĩa xóm. Đất nước cũng là một phần máu thịt trong ký ức của mỗi con người sinh ra đời. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” Nhà thơ ngược dòng được cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kỳ từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta được những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, và chở che nhau. “Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”Đó là tục nhuộm răng và ăn trầu của người già. Đồng thời cũng có câu tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện” sự tích trầu cau là nét đẹp của người già Việt Nam. Đất nước là nền văn hóa kết tinh từ tâm hồn người Việt. Từ truyện dân gian, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật thẩm mỹ, là hiện thân của tình yêu thủy chung, thủy chung của tâm hồn dân tộc ta. Tiếp đó, nhà thơ đóng vai trò là người dẫn đường đưa chúng tôi về với làng Phù Đổng để nghe truyền thuyết về Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh thắng giặc Ân. “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Hình ảnh trồng tre đánh giặc đó của nhân dân ta được lặp lại không chỉ một lần mà xuyên suốt 90 câu thơ. Hình ảnh này được lặp lại ba lần, là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc bảo vệ đất nước. người Việt Nam chúng ta. Có thể thấy, từ truyền thuyết dân gian đến các tác phẩm thơ ca hiện đại bao đời nay, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh, tinh thần đánh giặc cứu nước, biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân. Con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được sử dụng rất chính xác, khơi dậy niềm tin và niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ trầm bổng, trang nghiêm gợi suy nghĩ về cội nguồn đất nước giàu chất triết lí nhưng vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, nơi lý giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh giản dị, quen thuộc đã khẳng định rằng Đất Nước gần gũi, thân quen, bình dị ngay trong cuộc đời mỗi con người. Câu ca dao “Tóc mẹ vén sau đầu” nhắc đến mỗi chúng ta đã từng nghe về phong tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đất nước đã lớn lên từ mồ hôi nắng mưa. Hạt gạo, hạt gạo thấm bao mồ hôi, bao công lao nuôi dạy biết bao thế hệ. Đất nước lớn lên từ những nhọc nhằn của người cha và từ sự lo toan của người mẹ “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Nó là chất liệu của ca dao, tục ngữ và nó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng son sắt, là nơi chung thủy, chung thủy của nếp sống lứa đôi Việt Nam. Câu ca “Kèo, cột thành danh” ám chỉ tục đặt tên xấu cho con dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Gạo phải xay, giã, sàng, sảy” thể hiện các công đoạn và để tạo nên hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn luôn bảo vệ hạt giống, cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Những nét đẹp do cha mẹ truyền lại cho con cái tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống, nếp nghĩ qua ca dao, tục ngữ. Và nhân dân là những người thực sự đã truyền lại những nét đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần, tác giả nhận ra “Đất nước có từ ngày ấy…”, không biết ngày ấy sẽ có từ bao giờ, chỉ biết rằng nó có từ rất, rất lâu rồi. Chỉ biết rằng, đất nước cũng đã tồn tại từ thuở có truyền thuyết, huyền thoại, từ thuở lập quốc, đến khi dân tộc Việt Nam không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng. sử dụng bảng. lao động xây dựng đất nước. “Ngày ấy” vừa là trạng ngữ chỉ thời gian trong quá khứ, vừa là đại từ thay thế. Vậy là Đất nước đã có từ khi mẹ tôi hay kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng lúa khoai, biết ăn trầu, biết sống nghĩa tình thủy chung. Như đã nói ở trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội, là một trong những nhà thơ xẻ dọc những mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian địa lý, chúng ta phải hiểu rằng địa lý là tất cả những yếu tố tất nhiên sẽ có trên một đơn vị diện tích lãnh thổ của quốc gia. Là nhà thơ đã đi suốt chiều dài mảnh đất hình chữ S, ông am hiểu từng danh lam, thắng cảnh trên lãnh thổ Việt Nam. “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu …. Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Cảm nhận đầu tiên của ta khi đọc tám câu thơ là ta được đắm chìm trong không gian cổ tích thần tiên. Cả bài thơ là một kho truyện cổ, với những truyền thuyết như “núi Vọng Phu”, hay “hòn Trống Mái” đấy. Một lần nữa tác giả trong vai người hướng dẫn viên đưa chúng ta trở lại làng Phù Đổng để nghe câu chuyện Thánh Gióng nhổ tre bụi ngà đánh tan quân Ân xâm lược. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi dòng thơ có độ dài khác nhau nhưng có cấu trúc giống nhau. Mỗi dòng thơ được chia thành hai phần và được nối với nhau bằng điệp ngữ “góp”. Ta có thể chia bài thơ đọc theo từ “góp” sẽ là hai nửa thể hiện trong quan hệ đối lập. Nửa đầu viết về con người, thơ mộc mạc, giản dị, tình cảm, có chút e ấp, đáng thương. Ngược lại, nửa sau chữ “góp” nói về đất nước, lời thơ đa sắc màu. Nghệ thuật tương phản này cũng là bài ca ngợi sự hy sinh của nhân dân để làm vẻ vang cho đất nước. Đằng sau mỗi địa danh là một cái tên, đằng sau mỗi cái tên là một huyền thoại và đằng sau những huyền thoại của đời người. Những người có công với đất nước là những cặp vợ chồng thủy chung, những anh hùng, những người lính quyết tử vì nước quyết sống, những học trò nghèo mài bút, ông Đốc, ông Trang, bà Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Đen. Diễm… và hơn nữa, nhân dân cũng là những cái tên nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân, có những nhân vật chỉ nhắc đến ta. mới thấy được sự uy nghiêm linh thiêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp công dựng nước tổ Hùng Vương” là lời chúc quanh núi Hy Cương hay “Rồng nằm im cho non xanh sông thẳm”. Con người chúng ta rất đa dạng, rất nhiều, nhưng họ chỉ làm một điều chung và thống nhất đóng góp trái tim của mình để xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta. Nhà thơ còn sử dụng cụm từ “góp công” thật ấn tượng, đồng thời gợi lên sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, đoàn kết của trăm họ trong một điều cùng nhau góp sức dựng nên một không gian vẻ vang cho nhân gian, mọi người những người sau đây đã góp sức, đoàn kết, cống hiến xương máu, tính mạng, tên tuổi, tài năng của mình. Nhờ vậy mà thế hệ chúng tôi cũng có một đất nước hữu hình và một đất nước anh hùng. Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến những nơi không tên. Có người từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên địa danh là vô cùng quan trọng, không thể tùy tiện. Có rất nhiều địa danh đã được phản ánh trong các áng thơ ca dân tộc ca ngợi cảnh sông núi hùng vĩ, địa linh nhân kiệt. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm cũng không đi theo hướng đó, ông miêu tả sự sinh sôi nảy nở của những nơi ấy bởi ở đó có lòng trung thành, gắn bó, có máu xương, có tài, có danh, có khí. tâm hồn của người dân. Đây là kết quả của sự hy sinh bền bỉ cao cả của một dân tộc. Có thể nói tám câu thơ giúp người đọc thấy được sự kì diệu của thế hệ đi trước. Nó như đóa hoa vàng tỏa sáng mà Tổ quốc gọi công ơn nhân dân – những con người đã hy sinh để làm nên kỳ công là dân tộc ta. Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng với lung linh sắc màu và hình ảnh thơ thì bốn câu thơ sau là những cảm xúc suy tư của ngôn luận chính trị xen lẫn suy tư của một trí thức. Trước hết ta đến với hai câu thơ sau “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Được viết liền mạch, chữ thảo và diễn đạt theo lối phủ định thành khẳng định. Nó như một bản tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức nghị luận nhằm khẳng định mạnh mẽ những hy sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba là “Ôi đất nước bốn nghìn năm nhìn đâu cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ dường như không giấu được lòng mình, bày tỏ sự nghẹn ngào trước những hi sinh to lớn của các vĩ nhân. Tác giả cũng nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử của dân tộc, bốn nghìn đời tổ tiên đều đánh trận, đời cha đi trước, đời con theo sau, cha con đều là anh hùng. Đồng chí, đồng đội chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Kết thúc bài thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng “Đời đã biến núi sông ta…” bởi có sự biến đổi. Những câu trước mỗi dòng có từ mười ba đến mười lăm âm tiết, nhưng ở câu cuối chỉ có tám âm tiết. Nó như một sự chiêm nghiệm, và một đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó cũng được coi là kết thúc bằng hai âm bằng nhau như một giọng trầm để phản xạ lại âm thanh. Dấu chấm lửng kết thúc bài thơ như một khoảng lặng trước những xao động của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ ngắn gọn biết bao. Đời người tuy ngắn ngủi hữu hạn, nhưng hóa thành sông núi của ta, gửi gắm uy nghiêm vô biên, trường tồn bất biến. Đây là những biến đổi phi thường khẳng định cá tính của chúng ta và thật đáng kinh ngạc! Họ không chỉ hóa thân và làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên tâm hồn đất nước. Bên cạnh vẻ đẹp về chiều rộng và không gian địa lý, đất nước còn hiện lên với chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, tác giả Nguyễn Trãi là một nhà sử học chính thống, một đại thần dưới triều Lê sơ, ông là một nhà sử học, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi coi lịch sử Việt Nam là sự nối tiếp của các triều đại và các vị vua “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia của chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang cũng đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn ngàn năm Đất Nước” Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con” Nếu như nhà thơ Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch lại sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm được nói ở đây là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu nói quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của những người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, và nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của vài những con người vô danh “Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.” Họ đã làm ra Đất Nước bằng những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời của họ “Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại” Họ truyền cho nhau những ngọn lửa bùng cháy khát vọng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ mảnh đất cổ xưa từ thời vua Hùng và thời các vị thánh nhân đi trước. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho những thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc là hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, và tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi một người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ là “Báng súng” “Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên đang viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”. Chính nhân dân cũng đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên những lịch sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta. Cũng như vậy, ta nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng Anh gượng đứng lên vì tì súng trên xác trực thăng Và Anh đã chết trong khi đang đứng bắn Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vòng. Chợt thấy anh và giặc hốt hoảng xin hàng Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn Bởi Anh chết rồi nhung lòng dũng cảm Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công Anh tên gì hỡi Anh yêu quý Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong Không một tấm hình, không có một dòng địa chỉ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ Anh là chiến sĩ Giải phóng quân. Tên anh đã thành tên đất nước Ôi Anh Giải phóng quân! Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất Tổ quốc bay lên bát ngát của mùa xuân” Không một dòng địa chỉ, không một bức ảnh trước khi lên đường, nhưng những con người ấy vẫn tình nguyện ra đi để bảo vệ đất, nước, sẵn sàng ngã xuống để “Tổ quốc bay lên trong những mùa xuân”. Hay như nhà triết học người Đức – Engels đã từng nói “Không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Tư tưởng sâu xa dẫn đến tư tưởng cốt lõi, là điểm hội tụ và cũng là đỉnh điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn Đất Nước Đây Cũng Là Đất Nước Của Nhân Dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất nước nhân dân, tác giả đã trở về với cội nguồn văn hóa, văn hóa dân gian giàu đẹp mà thể hiện qua ca dao, vẻ đẹp tinh thần của con người, hơn hết, ở đâu cũng có thể tìm thấy trong ca dao, ca dao, cổ tích Đất nước của Nhân dân, Đất nước của dân gian mang tính thần thoại. Câu thơ có hai vế song hành cũng là một cách định nghĩa đất nước giản dị nhưng cũng rất độc đáo. Văn hóa Việt Nam là văn hóa của nhân dân, do nhân dân sáng tạo ra. Trong nền văn hóa ấy, có những câu ca dao thần thoại luôn chứa đựng lịch sử, xã hội, văn hóa của đất nước, đặc biệt là đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà thơ còn vận dụng ca dao, dân ca một cách sáng tạo không lặp lại nguyên văn mà chỉ vận dụng những ý nghĩa, hình ảnh của ca dao, còn gợi nhớ ca dao mà trở thành câu thơ, có một ý thơ gắn trong mạch chung của cả bài để khẳng định rằng Người Việt Nam trọng nghĩa tình. Thành công nghệ thuật của mỗi đoạn thơ này là sự vận dụng các yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới lạ. Chất liệu văn hóa, văn hóa dân gian được sử dụng tối đa để tạo nên không khí, âm điệu, không gian nghệ thuật riêng vừa mộc mạc, gần gũi, vừa bay bổng, mơ màng của dân ca, huyền thoại nhưng mới lạ qua những cách cảm nhận và thể hiện bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói, chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tác giả, tạo nên những nét nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ này. Qua đoạn trích Đất Nước, ta phần nào nhận thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc, ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi. , và hơi thở của cuộc sống. Chính luận đã làm sáng lên chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình phong phú. Bài thơ “điệp nhịp đập con tim” khiến ta thêm yêu và tự hào hơn 4000 năm lịch sử của đất nước Việt Nam. Qua đó ta thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hóa, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ được nhân dân bảo vệ và gìn giữ mãi mãi. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng chắt lọc, tôi luyện và lên men trong thơ mình những nét đẹp duyên dáng của văn hóa dân gian và thơ văn hóa. Và sự thống nhất trong toàn bài thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen như cùng với sự tan chảy của cảm xúc, của dòng suy nghĩ miên man. Xuyên suốt cả bài thơ, hai chữ “Đất nước” luôn được viết hoa trang trọng, lặp đi lặp lại như một câu chủ đề trong những bản anh hùng ca về sông núi. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cùng với trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, kể lể, liệt kê, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này, ông xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của Việt Nam. nhiều nền văn học Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần lâu dài của những người yêu văn học về đề tài tình yêu quê hương, đất nước và có giá trị cho đến tận ngày nay. 4. Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước Đất nước được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm tình yêu và dòng máu của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lập luận sắc bén nhưng cũng rất trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, qua đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất nước do ai làm ra? “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi linh hồn, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén mà cũng đằm thắm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do ai làm nên? “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cái nhìn rất mới mẻ, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của đất nước dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khao khát khám phá kiếm tìm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bát ngát, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, đến Nguyễn Khoa Điềm thì nhà thơ không nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm tinh thần thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng ngàn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do ai làm nên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện cái nhìn mới mẻ mà còn thể hiện cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông không phải là sự tạo tác của thiên nhiên mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa. Những quả đồi thấp bao quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Đất nước ngàn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Như vậy, khi khái quát lại ta có thể nhận ra, nếu thiên nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo linh hồn cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào đất nước. Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông không còn là cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử không chỉ đơn thuần mang tính chất thiêng liêng, mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước. “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời gian lịch sử, vừa gợi được không gian mênh mông. Dường như để từ đó nhà thơ muốn khẳng định, lặng lẽ bền bỉ cùng thời gian, trung hậu kiên cường trong không gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế hệ. Các bài viết liên quan Đăng bởi THPT Trịnh Hoài Đức Chuyên mục Lớp 12, Ngữ Văn 12
Thông qua bài phân tích Đất Nước đoạn 3, ta có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những mỗi một thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách là phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có nhiều những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ mỗi một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng lên Đất Nước. Nguyễn Khoa Điềm là nhờ văn và nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà thời kỳ kháng chiến chống thực dân Mỹ. Nổi bật nhất trong số các tác phẩm của tác giả phải kể đến là Đất Nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy được ngòi bút vô cùng sắc bén và thắm đượm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm. Tham khảo thêm Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Phân tích 9 câu đầu Đất Nước Phân tích bài Đất Nước đoạn 2 Soạn bài Đất Nước a Mở bài phân tích Đất Nước đoạn 3 – Sơ lược về nền văn học trong những năm 1945-1975, cùng với đó giới thiệu tác phẩm. b Thân bài phân tích Đất Nước đoạn 3 *Đất Nước đã có từ bao giờ? – Đất Nước đã ra đời từ rất lâu, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ ngày xưa. – Gợi ra những truyền thống thật tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, được dựa truyền thuyết. Sự tích Trầu Cau, và khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là những tình nghĩa anh em sâu đậm, và tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của người dân ta đấy là tục ăn trầu nhuộm răng. Truyền thuyết Thánh Gióng cũng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, và bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. – Đất Nước đã có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục của cha ông ta. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc đến người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà và các mẹ thời xưa. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là những đại diện cho truyền thống coi trọng những tình nghĩa vợ chồng. Đất Nước có từ rất lâu đời được và hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong mỗi cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa, cấy cây… *Đất nước là gì? – Về với không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường” và “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi thật sự thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng đã lại mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’và “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương đất nước. – Về thời gian lịch sử Quá khứ đó cũng là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi đó tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là những con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về những truyền thống hào hùng dựng nước và gìn giữ nước của cha ông. Trong hiện tại, nơi Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, đã bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn sẽ tồn tại trong từng nếp sống. Trong tương lai đó là một Đất Nước với rất nhiều triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, đã được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc của cả Đất Nước. *Tư tưởng Đất Nước của nhân dân nước ta – Trên phương diện không gian và địa lý – Cảm nhận Đất Nước đã qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong những từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với miền quê hương, đất nước. – Gợi nhắc những truyền thống thật sự tốt đẹp của dân tộc. – Nhấn mạnh việc đất nước của chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó đã gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc chung một nhà của nhân dân ta. – Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, cũng là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đã nhắc lại thuở xây dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi sau cùng còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc và con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương. => Khẳng định một cách mạnh thật mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, rất nhiều công góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm. * Phương diện thời gian và lịch sử nước ta – Suốt 4000 năm lịch sử, nơi nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ cũng chính là những người làm ra Đất Nước. – Nhân dân không chỉ là người xây dựng, bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy lại là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân. * Trên bình diện văn hóa – Tác giả cũng đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa rất tiêu biểu” của dân tộc Việt đã nói chung. – “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, đó là nét đẹp say đắm nhất trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở nơi xung quanh mình. – “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, và từ đó có thể thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là giá trị vật chất tầm thường. -“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra một vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao nhiêu đời nay. c Kết bài phân tích Đất Nước đoạn 3 – Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Đất Nước của tá giả Nguyễn Khoa Điềm . 2. Bài văn mẫu phân tích Đất Nước đoạn 3 Bài phân tích Đất Nước đoạn 3 của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 1 Tham khảo bài phân tích đoạn 3 Đất Nước hay đạt điểm 9+ Từ xưa cho đến nay viết về đất nước luôn là nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của những nền văn học. Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt nổi bật của nền văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về đất nước mộng mơ. Quan điểm đó đã được ông thể đã hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước thuộc trường ca Mặt đường đầy khát vọng. Đất nước đối với mỗi người là cả một ý niệm khác nhau. Đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng sự cảm mến của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, và lần lượt từng lớp của khái niệm đất nước đã được ông dần dần lật mở ra. Ông không định nghĩa bằng khái niệm quá mông lung, trừu tượng mà đi từ những điều hết sức cụ thể trong chính của cuộc sống Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc Qua khái niệm của tác giả, hình ảnh Đất Nước hiện lên thật bình dị, đất nước có từ những câu chuyện cổ tích, từ miếng trầu, và từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan lũ quân xâm lược Ân. Đất Nước ta có từ ngày đó, đã thấm nhuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ thuở bé. Không chỉ vật mà Đất Nước còn được hình thành từ thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống đẹp đẽ của cả dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” đã cho thấy nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã được bảo lưu từ ngàn đời của ông cha ta là vậy . Dù một nghìn năm Bắc thuộc, nếu bị phương Bắc tìm mọi cách Hán hóa ấy vậy nhưng không có cách nào xóa được những cái vốn văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta. Đất Nước cũng được từ hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung mà khởi nguồn chính là mối quan hệ nên vợ chồng “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm có nhiều sự vận dụng hết sực thuần thục ca dao là “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước đã được hình thành từ những điều tưởng như giản dị mà hết sức thiêng liêng và cao quý. Tiếp tục mạch cảm hứng đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất nước là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất Nước không còn xa lạ mà chính là không gian sinh tồn, gần gũi với đời sống sinh hoạt của tất cả mỗi chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã không hoa mỹ, và không ngần ngại mà làm sáng tỏ nó là nơi đến trường, nơi tắm, nơi hò hẹn ,và nơi nhớ nhung. Vâng, Đất Nước chính là vậy được hình thành từ những điều dung dị nhất của cuộc sống. Và để đó làm sâu sắc thêm khái niệm, ông đã truy nguyên nguồn gốc từ và quá khứ “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ đồng bào chúng ta trong bọc trứng”. Từ sự lý giải sâu sắc hai phương diện lịch sử và địa lý ông đã dần dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm của Đất Nước. Đồng thời từ đó cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi con người đối với cuộc sống đất nước “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu nhau và chỉ sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần những người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ đến ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh vác” đã khẳng định rằng trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời đó ông cũng lên tiếng nhắc nhở, dù xây dựng đất nước cũng không còn được quên đi công ơn của người đã dựng xây, kiến tạo nên Đất Nước. Chỉ với hai hay chữ “cúi đầu” cũng đã cho thấy tấm lòng thánh kính thiêng liêng hướng về quê cha, đất tổ đã sinh ra và lớn lên. “Trong anh em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”, đoạn thơ đã được khẳng định, Đất Nước được tồn tại và vững bền là bởi sự đoàn kết của tất cả mọi người, là sự yêu thương của đôi lứa. Chỉ khi có sự hòa hợp giữa cái chung cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì khi ấy mới có đất nước vẹn tròn to lớn. Và từ đó ông cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước là “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời” bởi vì Những người vợ nhớ chồng còn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu … Những người dân nào đã góp nên những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được ông gọi tên. Mỗi địa danh ấy cũng gắn liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn đời sáng. Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra một kết luận “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông của ta”. Để làm nên đất nước luôn chắc chắn không thể là một cá nhân có thể kiến tạo của nền văn hóa, truyền thống, lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là tất cả những người nào? Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Quả đúng, đó chính là một người vô danh, họ là những người con gái con trai, họ“đã sống chết” “giản dị và bình tâm” họ đã mang tên làng tên xã, mang lại phong tục tập quán truyền lại, bảo lưu cho thế hệ mai sau. Chính họ là những người cũng đã làm nên Đất nước. Với biện pháp liệt kê và điệp là “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại cho con cháu những giá trị vật với chất tinh thần cao quý nhất. Và điều họ hướng đến đó chính là Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại Đến đây Nguyễn Khoa Điềm cũng đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tư tưởng đất nước nhân dân của chính mình. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước là trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ là văn hóa dân gian” khởi thủy của truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân nước ta. Đồng thời đó cũng là nơi làm nên, vói khơi dậy nên truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu Bài thơ kết lại bằng những tiếng hát tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng khắp nơi núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy một niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối sự với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời của cha ông để lại. Đất Nước là một bài thơ giàu suy tư và triết lý, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới mẻ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại đã được mở mang thêm tri thức, lại có thêm một cách nhìn nhận thật về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó cũng càng thêm và yêu mến, tự hào với nơi mình đã được sinh ra và lớn lên. Bài phân tích Đất nước đoạn 3 của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 2 Mẫu bài phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 3 do học sinh trường chuyên trình bày Đất nước là đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn của nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh oai nghiệt, tình yêu đối với đất nước lại càng được tỏa sáng và rực cháy trong lòng mỗi của người dân Việt Nam. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong bối cảnh ấy. Khi nhắc đến văn chương ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta biết những nhà thơ trong thời kỳ này như là Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật… họ viết về hào khí của cả một dân tộc “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai.” Một trong những số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành ở trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc đó chính là Nguyễn Khoa Điềm. Khi nói đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, từ một trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đã đều không thể quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình trong chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn được người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, và thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào những cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác đó của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến những đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca với mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở nơi chiến khu Trị – Thiên năm 1971, và in lần đầu năm 1974. Tác phẩm đã được xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời những trên cả 3 bình diện chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra, sẽ do ai đẻ bảo vệ và gìn giữ muôn đời?” Để trả lời cho những câu hỏi ấy đã làm Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước của mình. Khi nói đến những vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của nhiều chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà ở đó con người ở một vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần có thể là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đưa đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền và còn bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, với những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, và từ trái tim của người giàu sang lồng ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc của Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu từ một những cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi Cấu trúc câu là “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử đó đất nước tựa như một sinh mệnh sống với một nội lực mãnh liệt. Nghệ thuật liệt kê là những biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất nước bình dị, và gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, nơi đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, tình làng xóm. Đất nước cùng là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người được sinh ra. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” Nhà thơ ngược dòng được cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kỳ từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta được những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, và chở che nhau. “Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn” Đó là tục nhuộm răng và tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ là “miếng trầu là đầu câu chuyện” sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ những tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, đến cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, và là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc ta. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn để đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng và nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Hình ảnh đó dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90 câu với thơ hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho những truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam ta. Có thể thấy, từ bao đời nay đã từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh và tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của những người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác,và rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ thật thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, và trữ tình. Cách cảm nhận, nơi lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, và thân thuộc đã khẳng định rằng Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống của mỗi người. Câu thơ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến mỗi chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đất nước đã trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, và thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao thế hệ. Đất nước lớn lên từ trong những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay bằng muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ và đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, nơi là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam. Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” đã nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong những câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước và để tạo ra hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền đã cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con và cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ. Và chính nhân dân là những người thật đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa người Việt Nam. Dần dần tác giả đã nhận ra “Đất Nước có từ ngày đó…”, ta không biết ngày đó sẽ là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước cũng có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, và từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, đến những từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất và thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng nên đất nước. “Ngày đó” vừa là trạng từ cùng chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước đã có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre để đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, biết sống yêu thương, thủy chung. Như đã nói ở trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, đó là một trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của những mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về một chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên sẽ trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của một mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và là vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam. “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu …. Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Ấn tượng lúc ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu là kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, với các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái” nơi ấy. Một lần nữa tác giả như là một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre và ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống của sự yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tùy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung kết cấu. Mỗi dòng thơ đã đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng như điệp từ “góp”. Ta có thể chia đoạn thơ đọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả đến theo tương quan đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, và lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng và xót thương. Trái lại, nửa sau của từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy với những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này cũng chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên cho đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, là đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại cuộc đời của những con người. Nhân dân đã làm nên đất nước, đó chính là những cặp vợ chồng thủy chung, những anh hùng, những người lính quyết tử cho một tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… và Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, hay con gà.. Trong điều nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ;à ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” là phúc quanh núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp cho dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế, là đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất góp sức chung để lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhà thơ cũng sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, và gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc cùng đó góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân sau đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, và góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta cũng mới có được một đất nước hữu hình và đất nước của những anh hùng. Nguyễn Khoa Điềm có đến nhắc đến những địa danh không tên. Có những người đã từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh chính là vô cùng quan trọng, không thể làm điều tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong những câu thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt đó. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm cũng không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của những địa danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, và có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của một nhân dân. Có thể nói, tám câu thơ đều giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ như trước. Nó giống như một bông vàng đã chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hy sinh để làm nên được tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta. Nếu như thế tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn câu thơ sau lại là cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm đi của một trí thức. Trước hết ta đến với hai câu thơ sau “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Được viết liền mạch và theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để được khẳng định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang một hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba là “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy là” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nổi lòng mình, đã bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân vĩ đại. Tác giả cũng nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử của dân tộc, bốn nghìn lớp của cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, và cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập của dân tộc. Kết thúc đoạn thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng đó là “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…” bởi có sự chuyển đổi đi. Những câu thơ đó trước mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn ở trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, và một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được coi kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào trong âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ có như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật là hàm súc. Cuộc đời của con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, và vĩnh hằng bất biến. Đây chính là những sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta và thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân và để làm nên hình hài đất nước mà còn đã làm nên linh hồn đất nước. Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng và không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như chúng ta đã biết, tác giả Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, và nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là những sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia của chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang cũng đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn ngàn năm Đất Nước” Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con” Nếu như nhà thơ Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch lại sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy đó là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu nói quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của những người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, và nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của vài những con người vô danh “Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.” Họ đã làm ra Đất Nước bằng những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời của họ “Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại” Họ truyền cho nhau những ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng và cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho những thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc là hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, và tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi một người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ là “Báng súng” “Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên đang viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”. Chính nhân dân cũng đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta . Cũng như vậy, ta nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng Anh gượng đứng lên vì tì súng trên xác trực thăng Và Anh đã chết trong khi đang đứng bắn Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vòng. Chợt thấy anh và giặc hốt hoảng xin hàng Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn Bởi Anh chết rồi nhung lòng dũng cảm Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công Anh tên gì hỡi Anh yêu quý Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong Không một tấm hình, không có một dòng địa chỉ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ Anh là chiến sĩ Giải phóng quân. Tên anh đã thành tên đất nước Ôi Anh Giải phóng quân! Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất Tổ quốc bay lên bát ngát của mùa xuân” Không có một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc đi lên đường nhưng những con người ấy đã vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai và xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Hay như triết gia người Đức – Engels đã cũng từng nói “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì sẽ không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, và điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn Đất Nước này cũng là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, và tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ văn hóa, và văn học dân gian mà tiêu biểu là những ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, và dân ca, truyện cổ là Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thật thần thoại. Câu thơ hai vế song song cũng là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng độc đáo. Nền văn hóa Đất Nước Việt Nam là một nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân đã sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, có ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, là có sự đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân. Nhà thơ cũng đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo không bị lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, và vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, có một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng định là Con người Việt Nam say đắm tình yêu. Thành công nghệ thuật của mỗi đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với một cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mỹ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, và văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, là không gian nghệ thuật riêng vừa có sự bình dị, gần gũi, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua những cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói rằng chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm ra nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này. Qua đoạn trích của Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với những cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, và nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp nên chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” và để ta thêm yêu và tự hào về Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá thì “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ do có nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, đó là vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi liệu văn hóa văn học dân gian. Và sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau như với sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên man của dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ hai chữ “Đất nước” đã luôn luôn được viết hoa một cách trang trọng, và lặp đi lặp lại tựa như một nốt chủ âm trong những bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, mà tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng với trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ đã được viết theo lối trường ca, kể lể, liệt kê, và khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong khi tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của nhiều văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng là xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu của đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay. Tham khảo thêm Soạn văn 12 học kì 1 Mở bài Đất Nước hay Kết bài Đất Nước hay
Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Hình Ảnh về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Video về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Wiki về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất – Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Non sông được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm cả tình yêu và máu thịt của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lí lẽ gang thép nhưng cũng ko kém phần trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, qua đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Non sông do người nào làm ra? “Vợ nhớ chồng cũng góp núi Vọng Phu cho quốc gia. Những đôi trai gái yêu nhau góp mặt ở hòn Trống Mái. Vó ngựa Thánh Gióng đi qua, nhưng trăm ao đầm vẫn còn Chín mươi chín con voi góp phần xây dựng đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im trong dòng sông xanh thẳm Chàng thư sinh nghèo giúp nước núi Bút, núi Nghiên. Con cóc và con gà cùng góp phần đưa Hạ Long trở thành thắng cảnh Những người góp công mang tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở khắp mọi nơi trên những cánh đồng và những ngọn đồi Ko có một hình hài, một ước muốn, một cách sống của người cha ”. Điểm qua, có thể thấy ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày một cái nhìn rất mới và lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về những danh lam thắng cảnh đẹp, hoang vu của dân tộc, là mảnh đất, là đề tài nhưng mà bao người cày cuốc, bao bước chân khát khao khám phá. Nhưng ở họ, người đọc chỉ thấy được vẻ đẹp rộng lớn, trẻ trung của tấm gấm nhưng mà chưa thấy được cái hồn sâu lắng đằng sau từng mảnh đất, cảnh vật. Tuy nhiên, tới với Nguyễn Khoa Điềm, thi sĩ ko nhìn danh lam thắng cảnh ở tâm hồn bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào tận xương tủy tâm hồn để thấy được những huyền thoại, những trầm tích văn hoá, lịch sử khắc sâu trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng. , thấm nhuần ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn liền với phong tục, văn hóa hay với những câu chuyện về con người và lịch sử được lưu giữ từ nghìn đời nay. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Non sông do người nào làm ra, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày một dung mạo mới nhưng mà còn trình bày một cách cảm nhận mới. Thế núi hình sông ko phải là tạo hóa của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời của mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân để tạo nên hình hài, khát vọng về lối sống của người cha. Sự tích về hòn Vọng Phu ko chỉ gợi lên cảnh chia ly, hy vọng dài dằng dặc trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình yêu chung tình của những người vợ nhớ chồng. Cách đặt tên Hòn Trống, Hòn Mái của dân gian qua con mắt của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của sự sinh sôi, nảy nở cho tình yêu lứa đôi vĩnh cửu. Những ngọn đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các Vua Hùng, qua con mắt của nhân dân, đã trở thành chứng tích của 99 con voi được quy tụ về thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng lòng hướng về quốc gia. thống nhât. Núi Bút, Non Nghiên là hình ảnh quốc gia nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, là hình ảnh quốc gia với gươm giáo trên lưng, bàn tay mềm mại cầm bút hoa. Tương tự, nhìn một cách tổng thể, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nếu tự nhiên tạo nên núi sông có hình thù thì chính con người, con người mới tạo nên vong linh cho mỗi ngọn núi, con sông. Xuất phát từ quan niệm Phật nhập thế, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh rằng nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Bài thơ mở đầu bằng những truyền thuyết trong dân gian, nhưng bay bổng trên toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của lối tư duy hiện đại. Núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên tinh khiết, những câu chuyện văn hóa, lịch sử ko thuần tuý thiêng liêng nhưng mà tất cả dưới con mắt của Nguyễn Khoa Điềm đều được xem như một phần tâm hồn. Máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng, cảm động về sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm nên quốc gia. “Ôi Non sông, sau bốn nghìn năm, tôi có thể nhìn thấy nó ở mọi nơi tôi tới Những cuộc đời đã biến núi sông của chúng ta… ” Cái tài hoa và sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa ko gian rộng lớn. Hình như từ đó thi sĩ muốn khẳng định rằng, lặng lẽ trường tồn với thời kì, trung kiên trung thành với ko gian chính là lẽ sống của nhân dân. Bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lên về sự đóng góp to lớn và nhập thế nhưng mà nhân dân đã góp phần tạo nên văn hóa, lịch sử, là hồn cốt của dân tộc. Từ đó giúp gắn kết tâm hồn con người từ bao đời nay. Những bài viết liên quan Đăng bởi Trường Trường TH Trảng Dài Phân mục Văn lớp 12, Ngữ văn 12 [rule_{ruleNumber}] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_3_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi vong linh, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén nhưng mà cũng thắm thiết trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên?“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo tạo điều kiện cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày cái nhìn rất mới mẻ, lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của quốc gia dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khát khao khám phá tìm kiếm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp mênh mông, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, tới Nguyễn Khoa Điềm thì thi sĩ ko nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng nghìn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày cái nhìn mới mẻ nhưng mà còn trình bày cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông ko phải là sự tạo tác của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ước ao một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu ko chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu lứa đôi. Những quả đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Non sông nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Tương tự, lúc nói chung lại ta có thể trông thấy, nếu tự nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo vong linh cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Đoạn thơ từ khi những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử ko chỉ thuần tuý mang tính chất thiêng liêng, nhưng mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa gợi được ko gian mênh mông. Hình như để từ đó thi sĩ muốn khẳng định, lặng lẽ dai sức cùng thời kì, trung hậu kiên cường trong ko gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn nhưng mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế bài viết liên quanĐăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_2_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_2_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_3_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi vong linh, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén nhưng mà cũng thắm thiết trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên?“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo tạo điều kiện cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày cái nhìn rất mới mẻ, lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của quốc gia dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khát khao khám phá tìm kiếm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp mênh mông, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, tới Nguyễn Khoa Điềm thì thi sĩ ko nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng nghìn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày cái nhìn mới mẻ nhưng mà còn trình bày cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông ko phải là sự tạo tác của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ước ao một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu ko chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu lứa đôi. Những quả đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Non sông nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Tương tự, lúc nói chung lại ta có thể trông thấy, nếu tự nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo vong linh cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Đoạn thơ từ khi những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử ko chỉ thuần tuý mang tính chất thiêng liêng, nhưng mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa gợi được ko gian mênh mông. Hình như để từ đó thi sĩ muốn khẳng định, lặng lẽ dai sức cùng thời kì, trung hậu kiên cường trong ko gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn nhưng mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế bài viết liên quanĐăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Bạn thấy bài viết Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất bên dưới để Trường TH Trảng Dài Nghĩacó thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường TH Trảng Dài Nhớ để nguồn Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất
phân tích đất nước đoạn 3